Đặc tính Yamato_(lớp_thiết_giáp_hạm)

Vũ khí

Hỏa lực phòng không được trang bị bên hông chiếc Yamato, như được mô phỏng bằng mô hình của con tàu tại Bảo tàng Yamato ở Kure.

Cho dù dàn pháo chính của lớp Yamato ban đầu được chỉ định là pháo 40 cm/45 caliber (15,9 in) Kiểu 94,[52] trong thực tế những chiếc tàu chiến được trang bị chín khẩu pháo 460 mm (18,1 in)/45 caliber, cỡ pháo lớn nhất từng được trang bị trên tàu chiến,[9] được bố trí trên ba tháp pháo ba nòng, mỗi chiếc nặng đến 2.774 tấn.[53] Mỗi khẩu pháo dài 21,13 m (69 ft 4 in), nặng 147,3 tấn,[54] có khả năng bắn đầu đạn miểng hay đạn xuyên thép xa 42 km (26 dặm/22,6 hải lý) ở tốc độ 1½ đến 2 quả mỗi phút.[9][52] Các khẩu pháo chính còn có thể bắn ra các quả đạn phòng không đặc biệt nặng 1.360 kg (3.000 lb) tên gọi 3 Shiki tsûjôdan ("Kiểu 3 Chung").[55][56] Một kíp nổ định thời gian được sử dụng để định khoảng cách bao xa trước khi quả đạn sẽ phát nổ, và chúng thường được đặt để cho nổ ở khoảng cách 1.000 m. Khi được kích nổ, mỗi quả đạn sẽ cho bung ra khoảng 900 ống chứa đầy chất cháy trong một chóp hình nón 20° hướng về phía máy bay đối phương; một khối thuốc nổ sẽ được sử dụng để phá vỡ bản thân vỏ đạn tạo ra thêm nhiều mảnh thép, và rồi các ống được kích nổ. Ống sẽ được đốt cháy trong năm giây ở nhiệt độ 3.000 °C (5.400 °F) khởi sự một vệt lửa kéo dài 5 m (16 ft 4 in). Cho dù chúng chiếm đến 40% tổng cơ số đạn pháo chính vào năm 1944,[52] đạn 3 Shiki tsûjôdan hiếm khi được sử dụng trong chiến đấu đối phó lại máy bay đối phương do tổn hại nghiêm trọng mà loại đạn này gây ra trên nòng các khẩu pháo chính;[57] thực ra, một quả đạn loại này có thể đã phát nổ sớm và làm tê liệt một khẩu pháo trên chiếc Musashi trong trận chiến biển Sibuyan.[52] Những quả đạn này được dự định tạo ra một bức màn hỏa lực ngăn chặn mọi chiếc máy bay tấn công tìm cách xuyên qua. Tuy nhiên, phi công Mỹ chỉ xem loại vũ khí này như là một kiểu pháo hoa để trình diễn hơn là một vũ khí phòng không có khả năng.[52]

Trong thiết kế ban đầu, dàn hỏa lực hạng hai của lớp Yamato bao gồm 12 khẩu pháo 155 mm (6.1 inch) bố trí trên bốn tháp súng ba nòng (một ở phía trước, một phía sau và hai ở giữa tàu),[53] và 12 khẩu pháo 127 mm (5 inch) trên sáu tháp súng đôi (ba tháp súng mỗi bên hông ở giữa tàu).[53] Thêm vào đó, lớp Yamato ban đầu được trang bị 24 súng phòng không 25 mm (1 inch), thoạt tiên được bố trí ở giữa tàu.[53] Đến năm 1944, những chiếc thiết giáp hạm trong lớp được nâng cấp hỏa lực phòng không một cách đáng kể, với cấu hình pháo hạng hai trên chiếc Yamato được đổi thành sáu khẩu pháo 155 mm (6.1 inch),[58] 24 khẩu pháo 127 mm (5 inch),[58] và 162 súng phòng không 25 mm (1 inch)[58]; trên chiếc Musashi là sáu khẩu 155 mm (6.1 inch),[9] 12 khẩu 127 mm (5 inch),[9] và 130 súng phòng không 25 mm (1 inch)[9] nhằm chuẩn bị cho trận hải chiến quyết định tại vịnh Leyte.[59]

Vũ khí trang bị cho Shinano khác biệt đáng kể so với những chiếc tàu chị em với nó do việc cải biến. Vì chiếc tàu sân bay được thiết kế nhằm vai trò hỗ trợ, hỏa lực phòng không của nó được tăng cường một cách đáng kể: 16 khẩu 127 mm (5 inch),[60] 125 súng phòng không 25 mm (1 inch),[60] và 336 ống phóng rocket phòng không 127 mm (5 inch) được bố trí thành 12 dàn, mỗi dàn có 28 ống phóng.[61] Tuy nhiên, dàn hỏa lực trên chưa từng được sử dụng chống lại tàu chiến hay máy bay đối phương.[61]

Vỏ giáp

Được thiết kế để tiếp chiến đồng thời nhiều tàu đối phương,[4] lớp Yamato được trang bị vỏ giáp rất dày. Đai giáp chính dọc theo thân tàu dày 410 mm (16 inch),[9] với các vách ngăn bổ sung dày 355 mm (14 inch) phía sau đai giáp chính.[9] Hơn nữa, cấu trúc thân tàu bên trên rất tiên tiến, dạng hông tàu uốn lượn cách kỳ dị đã giúp vỏ giáp bảo vệ tối đa hiệu quả, cấu trúc vững chắc trong khi tối ưu hóa trọng lượng. Vỏ giáp trên tháp pháo còn vượt quá đai giáp chính với độ dày đến 650 mm (25,5 inch).[9] Các tấm vỏ giáp trên đai giáp chính và tháp súng được làm từ Vickers Hardened, một loại thép tấm được gia cố bề mặt.[62] Vỏ giáp sàn tàu dày 75 mm (3 inch) làm từ một loại hợp kim nickel-chromium-molybdenum. Các thử nghiệm đạn đạo tại bãi thử ở Kamegabuki cho thấy vỏ giáp sàn tàu bằng hợp kim tốt hơn thép tấm Vicker đồng nhất khoảng 10-15%.[62] Các tấm thép bổ sung được thiết kế bằng cách chế biến thành phần của chromium và nickel trong hợp kim. Hàm lượng nickel cao hơn cho phép thép tấm có thể cuộn và uốn mà không tạo ra sự rạn nứt.[62]

Kỹ thuật hàn hồ quang tương đối mới vào thời đó đã được áp dụng một cách rộng rãi suốt con tàu, giúp tăng cường độ bền của lớp vỏ giáp.[63] Bằng kỹ thuật này, đai giáp bên dưới, vốn được trang bị cho các con tàu sau các thử nghiệm tác xạ trên lớp thiết giáp hạm Tosa cùng ngư lôi mới Nhật Bản Kiểu 91 có thể di chuyển một quãng đường dài dưới nước,[64] được sử dụng để gia cố cấu trúc của toàn bộ thân tàu.[63] Tổng cộng, những tàu chiến lớp Yamato có 1.147 ngăn kín nước,[63] trong đó 1.065 ngăn bên dưới sàn tàu bọc thép.[63]

Tuy vậy, vỏ giáp của lớp Yamato vẫn còn nhiều chỗ thiếu sót, một số đã tỏ ra chết người trong những năm 19441945.[65] Đặc biệt đáng kể là sự liên kết yếu kém giữa hai lớp đai giáp trên và dưới tạo ra một điểm yếu ngay bên dưới mực nước, khiến cho lớp tàu này dễ bị thiệt hại do ngư lôi ném từ trên không.[57] Những điểm yếu về cấu trúc khác hiện diện gần mũi tàu, nơi lớp vỏ giáp nói chung mỏng hơn.[57] Thân chiếc Shinano còn chịu nhiều khiếm khuyết về cấu trúc hơn nữa, chỉ được trang bị vỏ giáp tối thiểu và không có các ngăn kín nước vào lúc nó bị đánh chìm.[60]

Động lực

Lớp Yamato được trang bị 12 nồi hơi Kanpon và bốn turbine hơi nước,[2] dẫn động bốn chân vịt có đường kính 6 m (19 ft 8 in). Với công suất tổng cộng 147.948 mã lực,[9] động lực này cho phép lớp Yamato chỉ đạt được tốc độ tối đa 50 km/h (27 knot),[9] nên khả năng hoạt động cùng các tàu sân bay nhanh cũng phần nào bị hạn chế. Thêm vào đó, lượng nhiên liệu tiêu thụ của cả hai con tàu đều ở mức rất cao.[59] Kết quả là cả hai chiếc thiết giáp hạm đều không được huy động vào Chiến dịch quần đảo Solomon hay những trận đánh nhỏ "nhảy cóc" giữa các hòn đảo trong giai đoạn năm 1943 và đầu năm 1944.[59] Hệ thống động lực trên chiếc Shinano được cải tiến đôi chút, cho phép chiếc tàu sân bay đạt được tốc độ tối đa 52 km/h (28 knot).[61]